CHỨC NĂNG
THÀNH VIÊN
CÁCH XÂY DỰNG BỘ GIA PHẢ HOÀN CHỈNH (PHẦN III)
CÁCH XÂY DỰNG BỘ GIA PHẢ HOÀN CHỈNH (PHẦN III) |
|||||
---|---|---|---|---|---|
04/12/2014 | Tác giả: Vân Anh (Tổng hợp) | Lượt xem: 3204 | |||
(Các bài viết khác giống tác giả Vân Anh (Tổng hợp)) | |||||
Chim có tổ người có tông”, “Cây có cội, nước có nguồn”, những câu ca dao nói lên đạo lý của con người Việt Nam chúng ta đã lưu truyền bao đời nay dẫu cho xã hội có nhiều biến động, thay đổi. Vì vậy việc truy tìm nguồn gốc tổ tiên, chăm lo mồ mả ông bà, là những điều gần như nằm trong tiềm thức của mỗi một con người Việt Nam. |
|||||
PHẦN BỐN Bài mẫu: GIA PHẢ HỌ PHẠM, XÃ PHƯỚC LONG, Bộ gia phả nầy của dòng họ Phạm với Anh hùng lao động, Nghệ sĩ nhân dân Phạm Khắc, do Nguyễn Hữu Trịnh, Thông Thanh Khánh và Nguyễn Ứng hợp dựng năm 2005, nay đưa ra làm mẫu.
Bộ gia phả này có mấy ưu điểm là dựng tương đối đúng theo bố cục hợp lý chung đã hướng dẫn, cách viết nghiêm túc ngắn gọn; có phát hiện vài yếu tố mới như tìm ra mối quan hệ thân tộc giữa Phan Văn Trị với họ Phạm… Mặt khác do lúc đó chưa được hướng dẫn hoặc do truy tìm chưa tới mức, như không có phần mô tả các đặc điểm chức năng dòng họ, không có ngoại phả.
Gia phả họ Phạm có các phần:
Lời tựa - Chính phả với phả ký, phả hệ, phả đồ và Phụ khảo. Lúc ấy, nhóm đi dựng gia phả nhập phần ngoại phả vào phụ khảo và chỉ nêu thành mục phụ khảo
Dưới đây trích một phần của bộ gia phả họ Phạm để làm mẫu cho bạn đọc tham khảo:
“Chim có tổ người có tông”, “Cây có cội, nước có nguồn”, những câu ca dao nói lên đạo lý của con người Việt Nam chúng ta đã lưu truyền bao đời nay dẫu cho xã hội có nhiều biến động, thay đổi. Vì vậy việc truy tìm nguồn gốc tổ tiên, chăm lo mồ mả ông bà, là những điều gần như nằm trong tiềm thức của mỗi một con người Việt Nam.
Ông tổ dòng họ Phạm chúng ta đến lập nghiệp tại xã Nhơn Thạnh, Giồng Trôm, Bến Tre đã hơn 150 năm nay. Các bậc tiền bối họ Phạm đã cần cù lao động với mong muốn gầy dựng cho con cháu đời sau một tiền đồ sáng lạn hơn. Đất nước trải qua nhiều binh biến, các bậc tiền nhân và con cháu họ Phạm chúng ta cũng đã sả thân vì đại nghĩa. Tất cả những điều đó là những tấm gương sáng để con cháu học tập noi gương, tiếp tục truyền thống của gia đình và dòng họ để phấn đấu xây dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho chính bản thân mình và góp phần xây dựng cộng đồng xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh, họ Phạm chúng ta chưa có điều kiện để dựng bộ gia phả cho dòng tộc mình nhằm thắt chặt hơn nữa tình cảm giữa những người bà con ruột thịt, để có thể cùng nhau chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, cũng như để nhắc nhở con cháu về truyền thống dòng họ mình, mà nó có thể là niềm tự hào và sức mạnh tinh thần quí giá trong hành trang của mỗi thành viên dòng họ trên con đường lập nghiệp.
Sau ngày giải phóng, đất nước thanh bình, trong dòng họ Phạm chúng ta có ông Phạm Minh Triều (đời V) và ông Phạm Hữu Phùng (đời V) đã có những tìm tòi, ghi chép về bà con dòng họ. Tuy nhiên đó chỉ là sự nhiệt tình đáng quí chứ chưa thể đem lại cho dòng họ một bản gia phả hoàn chỉnh.
Thời gian cứ trôi qua như không hề chờ đợi một ai, một sự việc gì, ông Phạm Hữu Phùng qua đời, ông Phạm Minh Triều thì già yếu. Thiết nghĩ rằng, muốn xây dựng một bộ gia phả hoàn chỉnh cũng cần phải có thời gian, nhân lực và những chuyên môn nghiệp vụ nhất định. Vì thế mà ba anh em chúng tôi (Phạm Minh Triều, Phạm Khắc và Phạm Minh Bạch) với sự đồng ý của những bậc cao niên hiện còn sống, đã nhất trí quyết tâm tìm cách xây dựng hoàn chỉnh bộ gia phả họ Phạm.
Chúng tôi đã tìm đến Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Tp.HCM, nơi có người bạn của Phạm Khắc là ông Võ Ngọc An - trưởng nhóm - để nhờ Nhóm giúp đỡ.
Ngày 10-4-2005, Nhóm gia phả cùng những người đại diện dòng họ đã có buổi điền dã đầu tiên về xã Phước Long và xã Nhơn Thạnh để tìm hiểu, ghi chép bà con dòng họ và nhất là để tìm hiểu vị thuỷ tổ của dòng họ mình. Trải qua nhiều đợt điền dã ở các xã thuộc huyện Giồng Trôm, ở Đầm Dơi thuộc tỉnh Cà Mau và một số nơi tại Tp.HCM, nay gia phả đã cơ bản hoàn thành xin giới thiệu đến bà con dòng họ để chúng ta cùng tham khảo.
Việc xây dựng gia phả, nhất là với những họ không có phả gốc như họ Phạm chúng ta là một việc làm hết sức khó khăn. Vì thực hiện trong một thời gian ngắn, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Công việc xây dựng gia phả lại là công việc cần được tiến hành thường xuyên và liên tục, chúng tôi mong rằng toàn thể bà con dòng họ Phạm chúng ta hãy cùng nhau tiếp tục góp sức xây dựng, bổ sung để gia phả của chúng ta ngày càng hoàn chỉnh.
Cũng qua đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Tp.HCM đã giúp chúng tôi hoàn thành bộ gia phả này. Xin hoan nghênh sự hợp tác của rất nhiều bà con họ Phạm chúng ta trong quá trình dựng phả vừa qua.
Chào thân ái,
Mùa thu năm Ất Dậu, 2005
Các cháu đời V họ Phạm:
PHẠM MINH TRIỀU
PHẠM KHẮC PHẠM MINH BẠCH
Tập gia phả này ghi lại cánh bà con họ Phạm là hậu duệ của ông Phạm Văn Vân, người đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp tại xã Phước Long, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Cánh họ Phạm ở đây có nguồn gốc từ họ Phạm ở xã Nhơn Thạnh, huyện Giồng Trôm. Tuy rằng trong phần phả hệ, cánh họ Phạm ở Nhơn Thạnh chưa có điều kiện đề cập đến, nhưng phần phả ký, khi tìm hiểu về phát tích của dòng họ Phạm ở xã Phước Long, chúng ta không thể không đề cập đến họ Phạm ở Nhơn Thạnh.
Việc xây dựng bộ gia phả của dòng họ Phạm ở xã Phước Long, huyện Giồng Trôm có gặp những khó khăn nhất định, bởi một số lý do như: dòng họ không có gia phả gốc, thời chiến tranh bà con ly tán, mộ của những bậc thuộc các đời đầu đa số là mộ đất, không có bia, có chăng cũng chỉ là sự tôn tạo của con cháu trong những năm gần đây. Vì vậy, sự hiểu biết về tổ quán cũng như tổ phụ chỉ là những truyền ngôn, không đầy đủ, chính xác.
Việc ghi chép lại phả hệ của dòng họ chủ yếu là dựa vào ký ức của bà con hiện còn sống. Tuy nhiên việc xác định tổ quán, phát tích dòng họ, việc xác lập mối quan hệ giữa các nhóm họ Phạm có quan hệ thân tộc chủ yếu hiện sinh sống trên đất Giồng Trôm thì việc dựa vào ký ức cũng có nhiều hạn chế.
Phần phả ký này chủ yếu đề cập đến các vấn đề sau:
- Xác định tổ quán và vị thủy tổ.
- Nói lên được quá trình hình thành, phát triển của dòng họ.
- Những đặc điểm của dòng họ và mối quan hệ của dòng họ đối với xã hội.
I. VỊ HỌ PHẠM CAO NHẤT Ở XÃ PHƯỚC LONG - ÔNG PHẠM VĂN VÂN
Trước hết cần nói rằng họ Phạm ở xã Phước Long và họ Phạm ở xã Nhơn Thạnh cùng huyện Giồng Trôm là cùng một gốc. Bà con họ Phạm ở xã Phước Long vẫn truyền miệng nhau rằng tổ tiên của mình những ngày đầu đặt chân đến Bến Tre là tại xã Nhơn Thạnh. Song để đưa ra những yếu tố chứng minh cho điều đó thì chưa ai làm được.
Vị họ Phạm cao nhất của cánh họ Phạm xã Phước Long, cả ông và bà mộ chôn tại khu mộ của dòng họ. Nhưng cho đến lúc tiến hành dựng bộ gia phả này, con cháu cũng không biết tên, năm sinh, năm mất và hành trạng của ông bà. Mộ của ông bà mới được con cháu tôn tạo vào năm 1990. Bia trên mộ của ông, bà được ghi bằng chữ Việt là: “Phần mộ cụ ông thân sinh ông Phạm Văn Dư” và “Phần mộ cụ bà thân sinh ông Phạm Văn Dư”, ngoài ra không có thêm những thông tin gì khác.
Tuy nhiên, trong quá trình dựng bộ gia phả này, nhóm thực hiện đã xác định được tên của ông bà và năm sanh của ông, qua tham khảo một số tư liệu tại Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Bến Tre như sau:
- Trong bản tương phân ruộng đất mang ký hiệu số 368 có nói rằng, đất của ông Phạm Văn Vân cho con là Phạm Thị Phải.
- Trong bản tương phân ruộng đất mang ký hiệu số 372 có nói rằng đất của ông Phạm Văn Vân cho con là Phạm Văn Dư.
Ông Phạm Văn Dư như chúng ta đã biết, đó là ông nội của ông Phạm Khắc (người đứng ra xúc tiến thực hiện dựng bộ gia phả này). Như vậy chúng ta có thể kết luận rằng “cụ ông thân sinh ông Phạm Văn Dư”, tức vị họ Phạm cao nhất ở xã Phước Long như đã nói ở trên là ông Phạm Văn Vân.
Qua hai bản tương phân ruộng đất nói trên còn cho chúng ta biết ông Phạm Văn Dư còn có một người em gái, hoặc chị gái là Phạm Thị Phải. Đây là nhân vật mà chúng ta không nghe bà con dòng họ nói đến, khi đề cập về những người con của vị tổ họ Phạm ở Phước Long.
Trong sáu người con của vị tổ họ Phạm ở Phước Long thì: người thứ hai không biết tên, người thứ tư cũng không biết tên (bà Ba Vít - đời V - nói rằng theo bà biết thì đó là một người con gái). Cả hai người này cho đến nay chưa tìm thấy hậu duệ của họ. Vì vậy, cũng có thể bà Phạm Thị Phải là một trong hai người này. Đó cũng là vấn đề đặt ra để con cháu trong dòng họ nếu có điều kiện sẽ tiếp tục làm rõ thêm.
Cũng tại Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Bến Tre, trong hồ sơ tương phân ruộng đất, tổ thực hiện gia phả lại tìm được một bản khai sanh của bà Phạm Thị Phải.
Chính xác là khai sanh của bà Phạm Thị Ngự, tên thường gọi là Phải (tiếng Pháp ghi là dite Phải) trong đó ghi tên cha là Phạm Văn Vân (trùng khớp với giấy tương phân ruộng đất số 368 nói ở trên). Trong giấy khai sanh này còn có tên mẹ là Võ Thị Đừng, trong bản khai sanh cũng khai đây là “vợ chánh”. Vậy bà chánh thất của vị họ Phạm cao nhất ở xã Phước Long là bà Võ Thị Đừng.
Điều quan trọng hơn là qua giấy khai sanh này chúng ta tìm ra được năm sanh của ông Phạm Văn Vân. Khai sanh ghi năm sanh của bà Phạm Thị Ngự là 1892. Phần tuổi của cha (tức ông Phạm Văn Vân) ghi là 44 tuổi.
Năm 1892, ông Vân 44 tuổi, vì vậy ta có thể xác định năm sanh của ông Phạm Văn Vân là 1848.
Như vậy đối với vị họ Phạm cao nhất ở xã Phước Long đã được xác định danh tánh, tuổi tác, cùng danh tánh của bà chánh thất. Đó là những dữ liệu quý giá để chúng ta có cơ sở cho những lý giải xa hơn về nguồn gốc của dòng họ
Điều cần nói thêm rằng, trong giai đoạn hiện nay, ở tỉnh Bến Tre đang có những vấn đề phức tạp về đất đai, ruộng vườn. Nên chủ trương chung của tỉnh là tạm thời không cho phép sao lục các giấy tờ liên quan đến đất đai ở các cơ quan quản lý lĩnh vực này. Vì vậy tổ thực hiện gia phả không thể photocopy các bản tương phân ruộng đất kể trên để làm cứ liệu.
II. ÔNG PHẠM VĂN VÂN - CON CỦA VỊ THỦY TỔ HỌ PHẠM Ở XÃ NHƠN THẠNH
Ngày 10-4-2005, tổ thực hiện gia phả họ Phạm của Nhóm Nghiên cứu & Thực hành Gia phả Tp.HCM đã cùng đại diện dòng họ Phạm cánh ở Phước Long (gồm có ông Phạm Khắc và ông Phạm Minh Bạch) đã có chuyến đi đến xã Nhơn Thạnh gặp bà con ở đây để tìm hiểu về tổ quán và vị thủy tổ của dòng họ mình.
Ở xã Nhơn Thạnh, đoàn đã gặp một số bà con họ Phạm thuộc cánh trực hệ của ông Phạm Văn Hậu (đời II). Trong đó có ông Phạm Hoàng Minh (đời VI, con của ông Phạm Trường Cửu, ông Minh gọi ông Phạm Văn Hậu là ông sơ). Ông Minh hiện nay là người chăm sóc các ngôi mộ tổ tiên họ Phạm ở xã Nhơn Thạnh. Ở khu vườn trước nhà ông Minh có khá nhiều mộ, đáng chú ý nhất là 4 chiếc mộ đất. Trong đó có hai ngôi mộ ông Minh gọi bằng sơ (mộ ông bà Phạm Văn Hậu) và hai mộ ông Minh gọi là mộ tổ tiên (ông bà thân sinh của ông Phạm Văn Hậu).
Trong vai vế quan hệ thân tộc, ông Minh (đời VI) gọi ông Phạm Khắc (đời V), bằng bác. Như vậy ông cố của ông Phạm Khắc (tức ông Phạm Văn Vân - đời II) và ông sơ của ông Phạm Hoàng Minh (tức ông Phạm Văn Hậu, đời II) là quan hệ anh em. Ông Phạm Khắc là bác của ông Minh (tức cánh họ Phạm ở Phước Long là vai anh của cánh họ Phạm ở Nhơn Thạnh) vì vậy ông Phạm Văn Vân (ở Phước Long) là anh của ông Phạm Văn Hậu (ở Nhơn Thạnh).
Tuy nhiên ông Phạm Văn Vân và ông Phạm Văn Hậu có phải là anh em ruột hay không? Điều này liên quan đến việc lý giải thuyết phục hay không rằng cha mẹ của ông Phạm Văn Hậu (mộ chôn tại Nhơn Thạnh, trước mặt nhà ông Phạm Hoàng Minh) cũng chính là cha mẹ của ông Phạm Văn Vân. Đó cũng là lời giải cho quá trình đi tìm vị thủy tổ của họ Phạm ở xã Phước Long. Chúng ta hãy xét đến hai điều cần lưu ý sau đây:
- Thứ nhất, cả hai bên (Phước Long và Nhơn Thạnh) đều nói tổ tiên của mình từ ngoài Trung vào Bến Tre bằng phương tiện ghe bầu. Và những người ở cánh Phước Long như bà Ba Vít (đời V), ông Phạm Khắc (đời V)… đều nói rằng gốc gác của vị tổ mình là từ xã Nhơn Thạnh và trên thực tế hai cánh này vẫn nhận là có bà con với nhau, vai vế như hiện nay là do những bậc tiền bối lưu truyền lại, mà ngày nay con cháu cả hai bên không thể giải thích có ngọn ngành được.
- Thứ hai, ông Phạm Hoàng Minh (con ông Phạm Trường Cửu), bà Phạm Thu Hà (con ông Phạm Thiên Tứ - đời V) thuộc cánh họ Phạm ở xã Nhơn Thạnh nói rằng họ được cha mẹ, ông bà lúc còn sống kể rằng tổ tiên đến Nhơn Thạnh lập nghiệp với tài sản là một đôi quang gánh. Đôi quang gánh đó sau này được xem như một vật lưu niệm của vị thủy tổ dòng họ Phạm và nó được lưu lại tại nhà của một hậu duệ họ Phạm bên xã Phước Long là ông Cò Nguyện.
Ông Phạm Minh Bạch (Chín Chiến) thuộc cánh họ Phạm ở Phước Long, hiện nay sống ở thị xã Bến Tre đã tìm hiểu và xác định rằng: ông Cò Nguyện chính là ông Phạm Văn Nguyện (cháu nội đích tôn của ông Phạm Văn Vân - vị họ Phạm cao nhất ở xã Phước Long), ông tên Nguyện, ốm, cao và lưng cong như dáng con cò nên mọi người gọi thân mật là Cò Nguyện.
Kỷ vật này chắc chắn ông Cò Nguyện được “thừa kế” từ người ông nội Phạm Văn Vân. Và chúng ta có thể suy luận rằng, trong lúc vị thủy tổ họ Phạm ở Nhơn Thạnh đang có người con ruột là Phạm Văn Hậu với rất nhiều con cháu nối dõi tông đường, kỷ vật của ông tổ chỉ có thể trao cho ông Phạm Văn Vân ở Phước Long với điều kiện ông Phạm Văn Vân là con ruột của vị thủy tổ. Đó là lẽ thường tình phù hợp với tập tục, truyền thống của các dòng họ Việt Nam. Hơn nữa cánh họ Phạm ở Phước Long với vai vế là con trưởng của gia đình.
Như vậy chúng ta có thể kết luận ông Phạm Văn Vân là con của vị thủy tổ họ Phạm có mộ chôn tại xã Nhơn Thạnh hiện nay - người mà theo truyền ngôn của bà con dòng họ từ miền Trung vào lập nghiệp với tài sản ban đầu là một đôi quang gánh. Và như vậy, ông Phạm Văn Vân (ở Phước Long) cũng chính là người anh ruột của ông Phạm Văn Hậu (ở Nhơn Thạnh).
III. PHÁT TÍCH CỦA DÒNG HỌ
Vị thuỷ tổ đến xã Nhơn Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre từ lúc nào? Ông bà từ đâu đến? Sinh sống bằng nghề gì? Đây là những câu hỏi lớn cần được làm rõ trong mức độ có thể để hiểu thêm về vị thuỷ tổ và tổ quán của dòng họ Phạm.
Từ những tư liệu điền dã và một số tư liệu khảo cứu chúng ta có thể nói như sau:
Như phần trên đã nói, ông Phạm Văn Vân được xác định là sinh năm 1848, như vậy cha của ông Phạm Văn Vân (tức vị thủy tổ họ Phạm) sinh khoảng năm 1823 (nếu chúng ta giả định mỗi thế hệ cách nhau 25 năm, lấy 1848 – 25 = 1823). Nhưng theo truyền ngôn của những người trong dòng họ, thì “ông bà” vào đây bằng phương tiện ghe bầu. Yếu tố “ông bà” cho chúng ta biết trước lúc vào đây ông đã có vợ và đi cùng với vợ. Nếu ước định tuổi lấy vợ ít nhất là 18 tuổi, và sau khi cưới vợ thì đi vào Nam, thì ông bà đặt chân đến Nhơn Thạnh sớm nhất là năm 1841 (lấy 1823 + 18 = 1841). Như vậy, theo những giả định trên thì vị thủy tổ của họ Phạm đến Bến Tre này trong khoảng thời gian của niên đại vua Thiệu Trị (1841-1847) triều nhà Nguyễn.
Như chúng ta đã biết, từ đầu thế kỷ 19, con đường Thiên lý từ Huế vào Gia Định đã được khai thông. Nhưng đường đi còn lắm hiểm trở, với nhiều thú dữ, rừng thiêng nước độc và nhất là quân cướp dọc đường. Vì vậy, những người di cư thường chọn phương án an toàn là đi đường biển bằng ghe bầu. Những người đi đường biển để đến Bến Tre thường bằng hai con đường: Con đường thứ nhất là đến Đồng Nai, Bến Nghé, Tân Bình rồi sau đó đi tiếp về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Bến Tre. Con đường thứ hai là đi thẳng vào cửa Tiểu, cửa Đại, cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên rồi ngược dòng vào sâu trong đất liền định cư trên những giồng, gò cao. Trong những cửa sông đó thì cửa Đại, cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên là thuộc địa phận tỉnh Bến Tre.
Con cháu trong dòng họ, cả cánh ở Nhơn Thạnh lẫn cánh ở Phước Long nói rằng tổ tiên mình đã từ ngoài Trung vào bằng ghe bầu. Điều đó phù hợp hoàn toàn với thời điểm và phương cách mà người miền Trung chuyển cư đến lập nghiệp tại vùng đồng bằng sông Cửu Long như lịch sử đã ghi nhận.
Ngày nay, con cháu không biết rõ ông bà quê quán ở tỉnh nào trước khi di cư vào đây. Nhưng theo Địa chí Bến Tre thì trong thế kỷ thứ 18 và nửa đầu thế kỷ 19 thì “nhìn chung các đợt chuyển cư từ miền ngoài, chủ yếu là dân vùng Ngũ Quảng”. Vì vậy chúng ta chỉ có thể phỏng đoán rằng thuỷ tổ của họ Phạm ở xã Nhơn Thạnh và xã Phước Long là người của vùng đất Ngũ Quảng (tức Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam và Quảng Ngãi), đến đất Bến Tre theo trào lưu di dân vào nửa đầu thế kỷ 19.
IV. HỌ PHẠM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DÒNG HỌ VÀ DỰNG XÂY QUÊ HƯƠNG
1. Sự phát triển về số lượng
Ông thuỷ tổ họ Phạm đặt chân đến xã Nhơn Thạnh, huyện Giồng Trôm làm ăn và sinh sống ở đó. Con cháu và mồ mả ông bà còn lưu lại nơi đây đã chứng minh điều này. Nhưng qua đời thứ II, người con là Phạm Văn Vân đã đến sinh cơ lập nghiệp tại xã Phước Long, huyện Gồng Trôm. Sinh con cháu nối nghiệp cho đến nay là đời thứ VII.
Ông Phạm Văn Vân, vị tổ của họ Phạm ở xã Phước Long có 6 người con như sau:
- Thứ hai : không rõ
- Thứ ba : Phạm Văn Lại
- Thứ tư : không rõ
- Thứ năm: Phạm Văn Mùa
- Thứ sáu: Phạm Văn Dư
- Thứ bảy: Phạm Thị Giác
Đời III họ Phạm có ba người trai nối dõi đã sinh ra con cháu đông đúc. Ông ba Phạm Văn Lại có 8 người con (trong đó có 6 người là trai - một người chết nhỏ). Con cháu ông Phạm Văn Lại sống tập trung ở xã Thạnh Phú Đông.
Ông năm Phạm Văn Mùa tham gia hoạt động cách mạng, lúc bà vợ qua đời cũng là lúc phong trào cách mạng ở Bến Tre bị Pháp truy bức gắt gao. Những chiến sĩ cách mạng phải chuyển về Cà Mau hoạt động, ông dắt các con về lập nghiệp tại vùng Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Nhưng lúc về già bệnh tật, ông lại quay về Phước Long ở với người cháu Phạm Văn Tường (con người em thứ sáu Phạm Văn Dư) và chết ở nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mộ ông bà hiện chôn tại xã Phước Long. Ông có 8 người con trong đó có hai người con trai. Tất cả những người con của ông đều sinh sống ở tỉnh Cà Mau, sinh con cháu và tạo nên một cánh họ Phạm đông đúc ở Cà Mau.
Ông sáu Phạm Văn Dư thì ở lại tại Phước Long, con cháu chủ yếu sống tập trung tại đây. Ở Phước Long có một khu mộ thuộc đất nhà của dòng họ tập trung khoảng hơn 20 mộ phần, trong đó có mộ ông bà Phạm Văn Vân (đời II) và mộ ông bà Phạm Văn Dư (đời III). Ông Phạm Văn Dư có mười người con, trừ người con út chết nhỏ lúc 11 tuổi, trong 9 người còn lại thì có đến 8 người là trai.
Bà Phạm Thị Giác lấy chồng ở ấp Mỹ Thạnh, xã Phước Long. Bà Giác có người cháu ngoại là Trần Thị Ngôn và bà Trần Thị Ngôn là mẹ của ông Lê Huỳnh (nguyên chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre).
Đời III của họ Phạm sinh ra rất nhiều con cái, nuôi dưỡng lớn khôn và trưởng thành nên người để tạo nên một đời IV thật đông đúc, là bước phát triển về số lượng đáng kể đối với dòng họ Phạm.
(Xem tiếp phần IV) |